Vui học chữ Hán 1. Nội dung sách gồm: • 234 chữ Hán thông dụng • Mỗi chữ Hán có các hình ảnh minh họa sinh động dễ hiểu • Hướng dẫn cách viết chữ Hán. • Có ví dụ minh họa. Đây là tài liệu cần thiết và hữu ích cho • Những người mới học tiếng Hoa
Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam: Phần 1 cung cấp cho bạn đọc một số vấn đề chung về văn học trung đại Việt Nam, khái quát văn học Lý - Trần, về tác phẩm "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, khái quát văn học thế kỷ XV, Nguyễn Trãi - cuộc đời và sự nghiệp,.
1 "Bước chập chững" đầu tiên của chữ Quốc ngữ ; 2 Nhà thờ kiến trúc Gothich nhưng mang tên một loài hoa Việt; 3 Bảng chữ cái tiếng Việt ra đời khi nào?; 4 "Cha đẻ" chữ Quốc ngữ - người tạo ra bảng chữ cái tiếng Việt; 5 Video về Ai là tác giả của cuốn văn học sử phổ thông bằng chữ quốc ngữ
Học chữ Hán tiếng Trung cách viết Cách viết 8 nét cơ bản trong chữ Hán. Để tạo nên một chữ Trung Quốc đẹp, đúng phương pháp và hiệu quả, trước hết cần tìm hiểu các nét cơ bản trong tài liệu tiếng Trung.Chỉ cần ghi nhớ quy tắc viết tiếng Trung cơ bản này bạn sẽ không còn gặp khó khăn khi viết chữ
Văn Học Trung Đại Việt Nam Nhìn Từ Thể Loại Tiểu Thuyết Truyền Kỳ Chữ Hán. Là một bộ phận thuộc văn học trung đại Việt Nam, tiểu thuyết chữ Hán, trong đó tiêu biểu là tiểu thuyết truyền kỳ có vị trí hết sức quan trọng trong buổi đầu văn học viết Việt Nam được viết bằng chữ Hán.
Chỉ những bậc đại khoa uyên thâm mới có năng lực vượt qua khuôn mẫu để sáng tạo tự do. Chữ Hán nhập vào Việt Nam trở thành tiếng Hán Việt, khác hẳn với văn ngôn của người Hán, ít nhất là về âm đọc. Điều thú vị là trong khi văn ngôn đổi thay theo sinh ngữ của
Dp3oBCL. Bạn đang quan tâm đến Các Tác Phẩm Văn Học Chữ Hán phải không? Nào hãy cùng đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy! Tác phẩm văn học việt nam viết bằng chữ hán Có thể bạn quan tâm Tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục – Chị em Thúy Kiều – Nguyễn Du – Văn 9 Giới thiệu về tác giả Nam Cao và tác phẩm Lão Hạc – Nguyễn Lê Tín Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, tập 2 – Chí Phèo – Nghệ thuật thoát ra từ những kiếp lầm than – Sống chết mặc bay – Phạm Duy Tốn Ngoài văn học dân gian truyền khẩu, còn có một dòng văn học viết, đầu tiên là chữ Hán, sau đó là chữ Nôm, sau đó là chữ quốc ngữ như ngày nay. dòng văn học này đã trải qua nhiều thời kỳ. các văn bản sớm nhất được tìm thấy có niên đại từ thế kỷ thứ 10, được chia thành hai thời kỳ từ thế kỷ X đến thế kỷ X từ đầu thế kỷ 20 đến nay. bạn đang xem tác phẩm văn học bằng chữ Hán từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 12 Xem thêm Giới thiệu về tiểu thuyết Tắt đèn và đoạn trích Tức nước vỡ bờ – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng Vào thời kỳ này, văn học viết được viết bằng hai loại chữ viết chữ Hán và chữ viết. mặc dù sau một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt không bị đồng hóa mà dần dần hình thành nên bản sắc dân tộc riêng biệt. văn học du mục xuất hiện từ rất sớm, nhưng từ thế kỷ 16 văn học du mục mới thịnh hành và đến thế kỷ 16 văn học du mục chiếm một vị trí rất quan trọng. sự phát triển của ý thức dân tộc đã tạo điều kiện cho văn học du mục phát triển. Xem Thêm BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ TẠI VIỆT NAM – Luật sư Đà Nẵng – Luật sư FDVN văn học và chữ viết hình thành và phát triển trong nhiều thế kỷ, văn học chữ Hán đã giữ vị trí thống trị trừ một vài trường hợp, chẳng hạn như triều đình hồ và tỉnh lỵ, nơi quan trọng ngôn ngữ du mục, mặc dù họ sử dụng chữ Hán, các tác phẩm văn học này vẫn mang đậm bản sắc và hồn quê Việt Nam như Bài thơ nam quốc sơn hà lý thương kiều, hịch tướng sĩ trấn hưng đạo, thơ ca ngợi chiến công của nghĩa quân và quân dân ta. ông già, trần quang khai, sư phạm mạnh mẽ, cáo binh ngoại nguyễn trai, Sau đây là những bộ sử được viết với tinh thần dân tộc đậm nét Đại Việt sử ký toàn thư của bệnh viện liên khoa, hoàng lê nhất thống chí của ngoại gia văn phải, w. Vào thế kỷ 15, văn học chữ Hán vẫn còn thịnh hành. tuy nhiên, văn học du mục vẫn liên tục phát triển. Nguyễn Trãi là người bảo vệ chữ Quốc ngữ và vận dụng chữ viết vào sáng tạo văn học. Tuyển tập thơ văn thời kỳ này là một trong những tuyển tập thơ lục bát cổ nhất còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Xem thêm Ý nghĩa nhan đề Những ngôi sao xa xôi – Giải thích nhan đề Những ngôi sao xa xôi Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 10, văn học du mục phát triển mạnh mẽ và thống trị văn học. các nhà thơ lớn đã khai thác triệt để ngôn ngữ của dân tộc, nhiều tác phẩm tiêu biểu đã ra đời thơ vịnh xuân hương, nguyễn du truyện kiều, đoạn thi tập và ngâm khúc chinh phục, ngâm thơ Nguyễn Cung oán ngâm khúc. w, từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ 20, các tác phẩm văn học chữ Quốc ngữ dần xuất hiện. Văn học Việt Nam ngày nay không chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc mà còn tiếp thu văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp làm cho văn học Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng hơn về thể loại. Văn học Việt Nam đã dần dần thoát khỏi phong cách cổ điển bằng những tác phẩm kinh điển có sức nặng hơn, uyển chuyển hơn, chính xác hơn, gần gũi hơn với ngôn ngữ đời thường. năm 1925, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam được xuất bản “tam tam” của hoàng ngọc thất, “canon quả” của nguyễn ngữ lục. trào lưu thơ mới được coi là một cuộc “cách mạng” về thơ, những quy tắc gò bó, những lối diễn đạt thông thường, những công thức bị phá vỡ, cảm xúc được thể hiện tự nhiên hơn, cởi mở hơn, lãng mạn hơn. Nhiều nhà thơ tài năng đã xuất hiện trong phong trào thơ mới thơ trong lu, thế lu, vũ đình, xuân điều, huy cận, tân da, nguyệt. Xem Thêm Nguyên lý tảng băng trôi trong tác phẩm Ông già và biển cả – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng Về sự trỗi dậy của văn học lãng mạn, có một nhóm tự lực văn đoàn được thành lập vào năm 1932, bao gồm nhất linh, khai hung, hoàng đạo, thach lam, và một số tác giả trẻ, w. Dù dòng văn học này đã có nhiều tiến bộ trong sáng tác nhưng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng. Xem thêm Vẻ đẹp tiềm ẩn nhân vật chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn nam cao Bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn, cần phải kể đến văn học hiện thực phê phán. các tác phẩm của trào lưu văn học này rất chân thực và thấm nhuần tinh thần khoan dung. phong trào này đã cho ra đời những tác phẩm thực sự xuất sắc cả về nội dung và hình thức như Bước chân cuối cùng của nguyễn công tử, Đèn đường tắt, Vỡ đập, Vũ trong phung phí, Bi bo. by nguyen hong, chi pheo by nam cao, w. Cùng với hai phong trào trước, còn có một phong trào văn học cách mạng không lưu hành hợp pháp mặc dù đôi khi nó lưu hành một cách hợp pháp. trào lưu văn học này bao gồm các bài thơ của các chiến sĩ cách mạng trong tù và các tác phẩm đăng trên báo nước ngoài. Các tác giả tiêu biểu của phong trào này là Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thủy, Cách mạng tháng Tám thắng lợi, văn học hiện đại phát triển mạnh mẽ. những tác phẩm ra đời trong thời kỳ này như những cột mốc đánh dấu từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Tác phẩm Con trâu của Nguyễn Văn Phong, Vùng mỏ đất võ, Cuộc đụng độ của Nguyễn Đình Thi, Văn chính luận của Nguyễn Tuân, W. nó là kết quả của văn học trong những năm kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng đã ra đời phản ánh cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước, như Ông đồ. Trong gia đình có bảy người mẹ là người hầu của Phan Tứ, ở đất Quảng, mẹ là người nắm giữ binh khí của Nguyễn Thị. và các tác phẩm thơ Quê hương giang nam, Dáng đứng Việt Nam, Tiếng chim hót thu bon, Gió thổi cát trắng xuân quynh, w. Ngày nay, các nhà văn, nhà thơ đang cố gắng đưa văn học Việt Nam lên một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình và ổn định. Nguồn Danh mục Văn Học Vậy là đến đây bài viết về Các Tác Phẩm Văn Học Chữ Hán đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!
Đặc điểm của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX là A. Văn học chữ Hán phát triển hơn văn học chữ Nôm. B. Văn học chữ Nôm phát triển lấn át văn học chữ Hán. C. Văn học chữ Hán và chữ Nôm suy tàn. D. Phát triển văn học viết bằng chữ Quốc Ngữ. =>Trước khi chữ Quốc Ngữ được đưa vào sử dụng tại Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX, văn học Việt Nam chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, việc sử dụng hai loại chữ này hạn chế sự phổ biến và tiếp cận của văn học đối với đại chúng. Khi chữ Quốc Ngữ được đưa vào sử dụng, văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn với sự đa dạng thể loại và sự tiếp cận rộng rãi hơn với độc giả.
Tác giả Mã Đạt* Lược dịch Nguyễn Hải Hoành Trích yếu [của Mã Đạt] Trước giữa thế kỷ 10, vùng Bắc và Trung bộ Việt Nam hiện nay từng thuộc về Trung Quốc. Năm 968, sau khi xây dựng quốc gia tự chủ, Việt Nam lại giữ mối “quan hệ phiên quốc — chính quốc” lâu dài với Trung Quốc. Chữ Hán là chữ viết thông dụng của vùng này. Năm 1945, chữ Việt Nam Latin hoá trở thành chữ viết chính thức của Việt Nam. Trong tiến trình lịch sử lâu dài, văn hoá Trung Quốc với vật mang là chữ Hán đã được truyền bá rộng rãi ở Việt Nam và có ảnh hưởng quan trọng tới nước này. Bốn giai đoạn truyền bá chữ Hán tại Việt Nam Nhà văn tự học nổi tiếng Châu Hữu Quang từng có lời bàn rất sâu sắc về sự truyền bá và phát triển chữ viết. Ông nói “Ở phương Tây lưu truyền một quan điểm nói chữ viết đi theo tôn giáo ’, thực tế là chữ viết đi theo văn hoá . Chữ viết nào thay mặt nền văn hoá cao hơn thì mãi mãi truyền bá tới các dân tộc có văn hoá thấp. Nói chung, sự truyền bá và phát triển chữ viết trải qua 4 giai đoạn giai đoạn học tập, giai đoạn mượn dùng, giai đoạn phỏng tạo và giai đoạn sáng tạo. Tính giai đoạn của sự truyền bá thể hiện rõ nhất trong lịch sử chữ Hán.”[1] Sự truyền bá chữ Hán tại Việt Nam đại để cũng trải qua 4 giai đoạn đó Thời kỳ đầu của sự du nhập chữ Hán là “giai đoạn học tập”; tiếp theo là “giai đoạn mượn dùng”; vào khoảng thế kỷ 13 bắt đầu “giai đoạn phỏng tạo” –– xuất hiện chữ Nôm. Cùng với sự xâm nhập của thực dân phương Tây, bắt đầu “giai đoạn sáng tạo” –– Latin hoá. Giai đoạn học tập Chữ Hán và Hán ngữ du nhập Việt Nam theo sự di chuyển nhân dân Trung Nguyên cổ đại. Dân tộc chủ thể của Việt Nam ngày nay –– Việt tộc Kinh tộc từng là một nhánh của Bách Việt cổ đại, tức Lạc Việt [?]. Tương truyền vào thời đại Việt Vương Câu Tiễn, một số người trong bọn họ đã có thể lợi dụng chữ Hán và Hán ngữ làm công cụ giao tiếp, bắt đầu lịch sử Ngô quốc và Sở quốc đi lại với nhau. Năm 333 TCN, sau khi nước Sở diệt nước Việt, trong quá trình người Việt liên tục di cư về phía Nam, người Việt đã mang chữ Hán, Hán ngữ Mân Việt ngữ cùng văn hoá và kỹ thuật sản xuất tiên tiến đến lưu vực sông Hồng. Năm 316 TCN, Tần diệt Thục, hơn 30 nghìn người bộ tộc Thục sau đó cũng dần dần di cư về phía Nam. Tại đồng bằng sông Hồng, năm 257 TCN, Hoàng tử Thục [蜀王子泮 Thục Phán?] tự lập mình là An Dương Vương. Người Thục một lần nữa mang chữ Hán đến lưu vực sông Hồng. Năm 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, sau đó từng “đưa những người thường trốn tránh, người ở rể và người đi buôn” “đến đấy canh giữ”. Thời Triệu Đà, “Đồ dân” [dân di cư] từ Trung Nguyên không ngừng di cư tới sống chung với người Việt Nam. Trong quá trình sinh hoạt lâu dài hôn nhân lẫn nhau và trong quá trình sản xuất, đi lại, họ cũng dần dần trở thành người Việt Nam chính cống. Vì thời đó bộ tộc Việt Nam chưa có chữ viết nên chữ Hán và tiếng Hán bèn mọc rễ, nở hoa, trở nên lưu hành trong Việt tộc. Đời Hán, các quan lại địa phương vùng Giao Chỉ, Cửu Chân như Nhâm Diên, Tích Quang “mở trường học, dạy lễ nghĩa”, tiến hành truyền bá chữ Hán và tiếng Hán một cách có ý thức, có tổ chức, có kế hoạch. Qua nhiều năm hăng hái chăm lo công việc, dốc sức giáo hoá, chẳng những trừ bỏ được những hủ tục mà còn “Dạy dân dần dần có lễ nghĩa”, làm tăng số người biết chữ Hán và tiếng Hán trong Việt tộc. Từ các sự thực kể trên ta thấy, trong thời kỳ Tần Hán, chữ Hán và tiếng Hán truyền vào Việt Nam xảy ra kèm theo sự di cư dân chúng gây ra bởi chiến tranh. Từ đời Tần Hán về sau, các đời phong kiến thống trị Trung Quốc xuất phát từ nhu cầu chính trị, kinh tế, đã không ngừng tăng cường truyền bá văn hoá. Điều đó khách quan đã làm cho Việt Nam sớm tiến sang thời kỳ văn minh, rút ngắn thời kỳ mông muội. Khi chữ Hán bắt đầu du nhập Giao Chỉ, vùng này còn ở trạng thái ngu muội nguyên thuỷ. Chữ Hán và văn hoá Trung Quốc truyền vào đã thúc đẩy Giao Chỉ chuyển sang xã hội văn minh. Thời kỳ này là “giai đoạn học tập” chữ Hán. Giai đoạn mượn dùng Trong hơn 1000 năm kể từ khi chữ Hán truyền vào cho tới năm 968 Việt Nam độc lập [tức thời kỳ Bắc thuộc], các quan lại quận huyện vùng Giao Chỉ Giao Châu, An Nam đều do các vương triều phong kiến Trung Quốc phái đến. Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cuối đời Tây Hán, Thái Thú Cửu Chân Nhâm Diên đầu đời Đông Hán và Thái thú Giao Châu Sĩ Nhiếp thời kỳ Tam Quốc là những nhân vật nổi bật. Họ ra sức đẩy mạnh dạy chữ Hán, mở trường, thực hành giáo dục văn hoá Hán, dạy lễ nghĩa, thực hành chế độ một vợ một chồng, mở rộng áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến và văn hoá vùng Trung Nguyên. Các biện pháp cai trị như vậy đã thúc đẩy vùng Giao Chỉ từ chỗ ngu muội đi lên xã hội phong kiến “Thông thi thư, tập lễ nhạc” [Đọc hiểu Tứ thư ngũ kinh, tuân theo lễ nghi]. Đời Đường lập An Nam Đô hộ phủ. Các quan lại địa phương chú ý ra sức làm văn hoá giáo dục, dùng học thuyết Nho giáo để giáo hoá dân tục của xứ An Nam. Trong các thời kỳ lịch sử, do chiến tranh, loạn lạc mà có nhiều dân cư vùng Trung nguyên đã di chuyển đến Giao Châu. Trong số này có nhiều văn nhân, danh sĩ. Họ viết sách, lập chủ thuyết, truyền thụ các kinh điển Nho học. Những hoạt động học thuật đó đã nâng cao trình độ văn hoá và dân trí trong vùng, có tác dụng quan trọng đối với sự truyền bá văn hoá Hán. Vào đời Đường, tại xứ An Nam đã hình thành trào lưu nghiên cứu, học tập văn hoá Hán. Các nhân sĩ An Nam cũng tham gia khảo thí khoa cử như các nhân sĩ Trung nguyên. Khi ấy âm đọc chữ Hán, việc sử dụng Hán ngữ và dạy Hán ngữ ở An Nam đã hình thành hệ thống hoàn chỉnh, chính quy. Học giả Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn cho biết “Cách đọc Hán Việt đối với chữ Hán của Việt Nam hiện nay bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm chữ Hán đời Đường, cụ thể là Đường âm được giảng dạy tại Giao Châu vào thế kỷ 8 – 9”.[2] Năm 968, Việt Nam độc lập. Sau đó các triều đại phong kiến đều chủ động đẩy mạnh phổ cập và sử dụng chữ Hán, học văn hoá Hán tiên tiến để phục vụ sự cai trị của mình. Thời kỳ này là “giai đoạn mượn dùng” chữ Hán của Việt Nam. Giai đoạn phỏng tạo Khi tìm hiểu lịch sử sử dụng chữ Hán của Việt Nam, không thể bỏ qua lịch sử sử dụng chữ Nôm. Vào giữa thế kỷ 10, Việt Nam thoát khỏi ách cai trị phong kiến của Trung Quốc, xây dựng quốc gia tự chủ. Tuy Việt Nam luôn giữ mối “quan hệ chính quốc –– phiên quốc” với các vương triều Trung Quốc và sử dụng chữ Hán, nhưng cùng với sự không ngừng thức tỉnh và trỗi dậy về ý thức dân tộc và ý thức quốc gia, nước này luôn luôn có ý đồ sáng chế chữ viết của mình. Việc họ làm ra và sử dụng chữ Nôm là một chú giải tốt nhất của tâm trạng đó. Chữ Nôm là nói “Chữ Việt Nam được làm ra trong những năm mượn dùng chữ Hán, vì để viết tiếng Việt mà mượn dùng chữ Hán và bắt chước hình thức chữ Hán”. Chữ Nôm tức là “chữ viết của nước Nam”. Người sáng tạo chữ Nôm dùng các phương pháp hội ý, giả tá, hình thanh trong “Lục thư” làm phép tạo chữ. Chữ dùng phép giả tá, như chữ 固 có, mượn âm không mượn ý; chữ dùng phép hội ý, như chữ nghĩa là “ăn”; chữ tự tạo như chữ nghĩa là “buồn”. [trong bài này, những chữ bỏ trống là do trong máy tính của người dịch không có các chữ Nôm này] Chữ Nôm gồm chữ Hán mượn để viết tiếng Việt và chữ Việt Nam tự sáng tạo. Chữ Hán mượn dùng chỉ mượn âm không mượn nghĩa. Chữ tự tạo thì hoàn toàn mô phỏng kết cấu của chữ Hán, thường ghép hai chữ Hán thành một chữ Nôm, một bên biểu thị ngữ âm, một bên biểu thị ý nghĩa; có thể nói là vật thứ sinh [nguyên văn diễn sinh] tại Việt Nam của chữ Hán. Hán ngữ đã có cống hiến cực lớn vào việc hình thành và làm giàu ngôn ngữ quốc gia chính thức mà Việt Nam đang sử dụng –– Việt ngữ Latin hoá. Ít nhất có 60% từ vựng tiếng Việt là mượn từ Hán ngữ; sử gia Việt Nam Văn Tân cho rằng tỷ lệ này lên tới 70%. Ở thời nhà Trần, chữ Nôm từng được lưu hành rộng rãi, có một thời được dùng làm chữ viết chính thức, dùng song song với văn ngôn Hán ngữ. Đời nhà Hồ, Hồ Quý Ly còn dùng chữ Nôm dịch các kinh điển Nho học. Nhưng nhìn tổng thể thì trong quá trình lâu dài hơn 2000 năm Việt Nam sử dụng ngôn ngữ chữ Hán, người Việt Nam từ đế vương cho tới quý tộc, quan lại và văn nhân đều sùng thượng chữ Hán. Họ còn gọi chữ Hán là “Chữ Nho”, “Chữ ta”. Họ thờ phụng các kinh điển văn hoá Hán như thờ thần thánh, xếp các tác phẩm văn học do họ sáng tác bằng Hán ngữ ở địa vị độc tôn, mà xếp các tác phẩm sáng tác bằng chữ Nôm xuống địa vị thứ yếu, thậm chí có khi có thái độ khinh rẻ văn học chữ Nôm. Chữ viết là sản phẩm của sự phát triển xã hội đến một giai đoạn nhất định, “Nó tích tụ lắng đọng kết cấu văn hoá tâm lý của một dân tộc, phản ánh quan niệm tư duy của những người làm ra chữ viết, là sự chiếu rọi của lịch sử trên bình diện một thời đại”.[3] Sự xuất hiện chữ Nôm phản ánh tâm trạng của tầng lớp sĩ đại phu phong kiến Việt Nam mong muốn độc lập với Trung Quốc về văn hoá. Thế nhưng qua việc xem xét lịch sử phát triển văn học chữ Nôm, chúng tôi thấy thứ sản phẩm “dùng chữ tạo chữ” này đã thất bại [?]. Văn học chữ Nôm ra đời vào thế kỷ 13, hưng thịnh vào thế kỷ 18, trải qua quá trình phát triển gian nan quanh co hơn 5 thế kỷ. Kể từ ngày xuất hiện, chữ Nôm hầu như chưa nhận được sự thừa nhận và coi trọng của các vương triều Việt Nam. Cho dù triều nhà Hồ 1400 – 1407 và triều Nguyễn Tây Sơn 1771 – 1792 có thừa nhận và coi trọng chữ Nôm, Hồ Quý Ly còn hạ lệnh dịch các thư tịch Hán ngữ thành chữ Nôm, ba anh em họ Nguyễn [Tây Sơn] trong quá trình khởi nghĩa và sau khi lập triều đình đều đã đưa chữ Nôm lên địa vị chữ viết chính thức. Nhưng tiếc rằng triều nhà Hồ và triều Tây Sơn đều là những vương triều đoản mệnh, không kịp và không thể trong thời gian cai trị 7 và 20 năm có thể phát huy rực rỡ vai trò của chữ Nôm. Hoàng đế Minh Mạng nhà Nguyễn 1820 – 1841 sau khi lên ngôi từng ra chiếu thư cấm dùng chữ Nôm, nhất loạt lấy “Tự điển Khang Hy” làm tiêu chuẩn, sử dụng chữ Hán chính xác để viết lách. Chiếu thư này nhằm chấm dứt tình trạng giới sĩ phu trong xã hội khi viết văn bản thường viết chen chữ Nôm lẫn với chữ Hán. Các nhà Nho học Việt Nam chính thống đã tẩy chay và miệt thị sử dụng chữ Nôm; trong ý thức tầng sâu của họ chỉ có chữ Hán là chính tông, văn học chữ Nôm luôn bị coi là “văn học thông tục” [nguyên văn tục văn học] không được liệt vào hàng văn học thanh nhã. Vì thế không ít tác phẩm chữ Nôm của văn nhân Việt Nam sau khi hoàn tất đã không ghi tên tác giả, dẫn tới tình trạng trong lịch sử văn học Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm chữ Nôm khuyết danh. Tâm trạng dân tộc “Trọng Hán khinh Nôm” này của người Việt Nam chắc chắn là một nhân tố quan trọng làm cho văn học Hán, văn hoá Hán tươi tốt lâu dài, còn ngôn ngữ dân tộc và văn học chữ Nôm không phát triển suôn sẻ. Do chữ Nôm và chữ Hán “về hình thức có tính đồng chất không chút sơ hở để bị công kích”, hơn nữa “hệ thống văn học tục thể Việt Nam còn xa mới có được sức sống của kết cấu từ nghĩa của chữ Hán”,[4] cho nên đến thế kỷ 17 [nguyên văn của tác giả] thì chữ Nôm bị chữ Quốc ngữ Latin hoá thay thế, chữ Nôm trở thành một loại văn tự chết, thế nhưng hiện nay vẫn có thể mượn chữ Hán để giải thích. Chữ Hán trở thành công cụ và cầu nối để phát hiện khai thác kho tàng văn hoá truyền thống Việt Nam. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam lập riêng một “Viện nghiên cứu Hán Nôm” tại “Trung tâm quốc gia khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam” để chỉnh lý các thư tịch chữ Hán và chữ Nôm của Việt Nam. Trong tiến trình lịch sử sử dụng chữ Hán, Việt Nam hoặc là “câu nệ vào âm đọc chữ Hán, không phát triển huấn độc [đọc cưỡng chế theo âm khác] chữ Hán, qua đó thực hiện sự chuyển đổi chữ Hán từ biểu đạt Hán ngữ đến biểu đạt Việt ngữ”, hoặc là “câu nệ vào âm đọc chữ Hán, lại câu nệ vào hình thể của chữ Hán, chưa thành công thực hiện sự chuyển đổi từ chữ Hán đến chữ viết dân tộc, như Nhật và Triều Tiên đã làm”.[5] Bởi vậy cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng chữ viết rất nặng nề. Cuối cùng, sự xâm lược của cường quốc phương Tây đã dẫn đến một cuộc cách mạng chữ viết sâu sắc –– Latin hoá chữ viết. Thời kỳ Việt Nam sử dụng chữ Nôm là “giai đoạn phỏng tạo” chữ Hán. Giai đoạn sáng tạo Công cuôc Latin hoá tiếng Việt bắt đầu vào thế kỷ 16 – 17. Thời đó, các nhà truyền giáo châu Âu xuất phát từ nhu cầu truyền bá giáo lý Ki-tô giáo và khai thác thuộc địa, bắt đầu sử dụng chữ cái Latin để ghi chú các phát âm của tiếng Việt. Về sau họ dần dần mở rộng, hoàn thiện, mở màn giai đoạn Latin hoá tiếng Việt. Thập niên 30 thế kỷ 17, giáo sĩ người Pháp Alexander de Rhodes 1593 – 1660 làm ra phương án phiên âm Latin đầu tiên cho tiếng Việt –– chữ Quốc ngữ. Năm 1651, tại Rome, ông xuất bản “Từ điển Việt – Bồ – La”, được coi là sự mở đầu công cuộc phiên âm Latin hoá tiếng Việt. Từ đó chữ viết Latin hoá của Việt Nam trở thành một công cụ nữa để người Việt Nam thu nhận tri thức văn hoá. Nhưng mãi đến năm 1935, Chính phủ Việt Nam [triều đình Huế] dưới quyền cai trị của thực dân Pháp mới chuẩn y cho các nhà trường dùng chữ viết phiên âm để giảng dạy, và năm 1936 ra lệnh chính thức bỏ chữ Hán. Tháng 9/1945, sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu chính thức xác định chữ viết phiên âm là chữ viết chính thức của Nhà nước Việt Nam. Việc sử dụng phổ biến loại chữ viết mới này, về hình thức dường như đã quét sạch dấu vết của văn hoá Hán, nhưng trên thực tế, ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc đối với Việt Nam vừa sâu sắc vừa lâu dài, một mệnh lệnh ban ra tuyệt đối không thể xoá bỏ được ảnh hưởng đó. Cho tới nay, trong ngôn ngữ của nhân dân Việt Nam vẫn còn có nhiều từ Hán ngữ; trong tập quán sinh hoạt và phong tục xã hội của dân Việt Nam còn giữ lại nhiều truyền thống của dân tộc Hán; trong giới trí thức và nhà cách mạng Việt Nam cận-hiện đại còn có nhiều người tinh thông Hán ngữ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Hoan đều có trình độ Hán văn rất cao. Ảnh hưởng của chữ Hán tại Việt Nam Vào giữa thế kỷ 10, Đinh Bộ Lĩnh xây dựng nhà nước tự chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Nhưng trong mười mấy triều đại sau đó, chữ Hán luôn luôn là chữ viết thông dụng của Việt Nam. Trong hơn 400 năm từ đời Lý cho tới đời Trần, các văn nhân Việt Nam đã dùng chữ Hán viết rất nhiều tác phẩm, như “Việt sử cương mục”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “An Nam nhất thống chí”, “Lĩnh Nam trích quái”, “Đại Nam thực lục”, “Khâm định Việt sử cương giám cương mục”, “An Nam chí”. Nửa cuối thế kỷ 19, người phương Tây tiến về phương Đông, đặc biệt thực dân Pháp sau khi xâm nhập Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu thực dân, đã cưỡng chế phổ cập tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ, bài xích Hán văn. Thế nhưng, do nguồn gốc lịch sử sâu xa, Hán văn vẫn được nhân dân Việt Nam ưa thích. Cho tới thập niên 1920, Việt Nam vẫn dùng Hán văn xuất bản khá nhiều sách báo như “Trung học Việt sử toát yếu”, “Việt sử kính”, “Nam Phong tạp chí”. Sử gia Văn Tân nói “Ngôn ngữ văn tự Trung Quốc đã trở thành bộ phận hữu cơ trong ngôn ngữ văn tự Việt Nam. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn tự Việt Nam với ngôn ngữ văn tự Trung Quốc khăng khít hơn mối quan hệ giữa chữ Latin với ngôn ngữ Pháp. Vì vậy, nếu muốn thực sự hiểu ngôn ngữ văn tự Việt Nam thì không thể không hiểu ngôn ngữ văn tự Trung Quốc.”[6] Năm 1917, thực dân Pháp ra lệnh bỏ Hán văn, nhưng lệnh này không có hiệu quả rõ ràng. Năm 1937, Phủ Tổng đốc Việt Nam [?] công bố các số liệu Trong số các ấn phẩm xuất bản ở Việt Nam, có 6 loại báo Trung văn, 12 tập san Trung văn, trong khi chỉ có 4 loại tạp chí in chung Pháp văn, Việt văn và Hán văn. Thập niên 1940, dưới sự lãnh đạo của thế hệ nhà cách mạng lão thành Hồ Chí Minh, Bắc bộ Việt Nam được giải phóng. Tuy đã ra sức phổ cập chữ Quốc ngữ, nhưng vẫn còn không ít người thích dùng Hán văn làm thơ phú. Rất nhiều người Việt Nam tinh thông Hán ngữ. Như Hồ Chí Minh trong thời gian 1940 – 1942, khi bị giam trong các nhà tù ở Quảng Tây đã viết hàng trăm bài thơ có trình độ Hán ngữ rất cao, đặt tên là “Nhật ký trong tù”. Ngoài ra, Hoàng Văn Hoan, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng cũng có trình độ Hán ngữ khá cao. Trong lịch sử hơn 2000 năm sử dụng chữ Hán, chẳng những chữ Hán cùng Việt Nam chuyển tiếp từ xã hội bộ lạc nguyên thuỷ mông muội sang xã hội phong kiến, mà còn cùng Việt Nam đi hết giai đoạn xã hội phong kiến gần 2000 năm. Trong quá trình đó, chữ Hán đã đem nền văn hoá Hán có nguồn gốc xa xưa, sâu rộng không ngừng du nhập Việt Nam. Điều đó một mặt đã có những đóng góp không thể xoá bỏ cho sự tiến bộ của xã hội Việt Nam, cho sự phát triển mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật của Việt Nam; mặt khác, do văn hoá Hán đã thấm sâu vào đời sống văn hoá xã hội của Việt Nam, chữ Hán đã có tác dụng chuyên chở văn hoá Việt Nam. Đúng như học giả Việt Nam Văn Tân từng nói “Trước năm 1884, người Việt Nam khi viết sách thường dùng chữ Hán để thể hiện tình cảm, tư tưởng của mình. Vì thế trong kho tàng văn hoá Việt Nam có nhiều trước tác viết bằng chữ Trung Quốc.”[7] Qua đó có thể thấy chữ Hán, với tư cách là chữ viết chính thức Việt Nam sử dụng hơn 2000 năm, đã lập công lớn, không thể xoá bỏ. Trong lịch sử văn hoá cổ đại Việt Nam, chữ Hán và chữ Nôm là những vật liệu chịu tải xây đắp nên nền văn hoá của nước này, nhất là chữ Hán đã có ảnh hưởng toàn diện và sâu xa đối với văn hoá cổ Việt Nam. Thế nhưng, sau khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, chữ Hán và chữ Nôm đều dần dần bị chữ viết biểu âm thay thế. Quá trình này chẳng những là một biến đổi lớn về chữ viết của Việt Nam cận đại mà còn có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển văn hoá Việt Nam cận đại. Học giả Pháp 余傅华 [Yu Fuhua, chưa rõ tên tiếng Pháp là gì] bình luận “Loại chữ viết mới này nếu không nói là đã cắt đứt thân cây đại thụ Việt Nam và Trung Quốc thì ít nhất cũng làm cho Việt Nam tách rời Trung Quốc.”[8] Do nguyên nhân lịch sử, nông dân Bắc bộ Việt Nam “cho tới ngày nay, chẳng những thể hiện tình cảm truyền thống như với người biết chữ trong xã hội cũ, mà còn thể hiện một tình cảm sâu đậm nào đó đối với người nước ngoài đọc hiểu chữ Hán”.[9] Giới học giả Việt Nam thập niên 1950 có một quan điểm Mọi tác phẩm viết bằng chữ Hán dù có nội dung yêu nước mạnh mẽ đến đâu, dù viết vào thời kỳ lịch sử nào đều không được coi là văn học dân tộc. Vì thế, tạp chí “Văn Sử Địa” của Việt Nam từng triển khai một đợt thảo luận.[10] Sử gia Việt Nam nổi tiếng Minh Tranh cho rằng trước khi Việt Nam có chữ viết của mình, những tác phẩm mượn chữ Hán để viết, “nội dung và tinh thần có tính chất Việt Nam, phục vụ sự phát triển dân tộc Việt Nam, vì sao lại không thể xếp vào văn học Việt Nam?”[11] Sau cùng Văn Tân thay mặt tạp chí “Văn Sử Địa” đưa ra lời kết về cuộc tranh luận này, ông cho rằng “Nếu loại trừ các tác phẩm đó ra ngoài lĩnh vực văn học dân tộc thì lịch sử dân tộc ta sẽ thiếu hụt một mảng lớn.”[12] Qua cuộc tranh luận này có thể thấy mức độ quan trọng của chữ Hán đối với văn hoá dân tộc Việt Nam. Học giả Việt Nam nổi tiếng Phạm Duy Nghĩa từng kêu gọi Chính phủ Việt Nam phục hồi dạy chữ Hán tại Việt Nam than rằng “Từ sau khi chữ viết phiên âm thay cho chữ Hán, dường như người Việt Nam đã tự mình xây một bức tường ngôn ngữ và văn hoá ngăn cách các thế hệ sau với các thế hệ trước. Một số từ ngữ như luật, lệ, khế ước, phán quan bây giờ chỉ ngẫu nhiên thấy có trên sách vở. Phần đông người Việt Nam hiện đại rất ít cảm nhận được những triết lý văn hoá và giá trị tinh thần ẩn chứa phía sau các từ ngữ đó.”[13] Quan điểm này hiện khá lưu hành trong tầng lớp trí thức cấp cao ở Việt Nam. Lời kết Tổng quan những phần trình bày ở trên, tôi cho rằng Hán ngữ cấu tạo bởi chữ Hán, và văn hoá Hán mà nó chuyên chở, là bộ phận cấu thành quan trọng sự phát triển ngôn ngữ, văn học và văn hoá Việt Nam. Nhờ sự truyền bá chữ Hán mà chất đất màu mỡ cùng các dưỡng chất phong phú của văn hoá Trung Quốc đã thai nghén, nuôi dưỡng và tưới tắm nền văn hoá Việt Nam. Sự hưng thịnh của văn hoá Trung Quốc tại Việt Nam cũng kéo theo sự phát triển không ngừng của văn hoá bản địa Việt Nam, thúc đẩy bánh xe lịch sử – văn hoá toàn bộ Việt Nam không ngừng tiến lên phía trước. *Mã Đạt 马达, sinh 1965, người Hà Nam Trung Quốc, nghiên cứu sinh tiến sĩ Học viện Lịch sử tại trường Đại học Trịnh Châu Hà Nam, Phó Tổng Biên tập Thời báo Văn hoá; chủ yếu nghiên cứu lịch sử văn hoá cổ đại Trung Quốc. Bài này viết theo quan điểm của giới sử học Trung Quốc. Chúng tôi dịch bài này không có nghĩa là tán thành quan điểm của tác giả. Nguồn bài gốc tiếng Trung 论汉字在越南的传播及其影响 2012-08-11 Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau năm Bắc thuộc? ——————- [1] 赵丽明: 汉字传播与中越文化交流 [M]. 北京:国际文化出版社,2004. [2] Như trên. [3] 姜跃滨, 章也. 浮出翰海——汉语与汉文化的建构 [M]. 西安 陕西人民教育出版社, 1989. [4] 汪德迈. 新汉文化圈 [M]. 南昌:江西人民出版社,1993. [5] 吴受祥. 越南汉字使用史上的两次失误 [J] 解放军外语学院学报,1992, 5):40—46. [6] 中国社会科学院历史所. 古代中越关系史资料选编 [M]. 北京 中国社会科学出版社,1982. [7] 吴受祥. 越南汉字使用史上的两次失误 [J] 解放军外语学院学报,1992, 5):40—46. [8] [法] 余敷华. 中国面向世界 [M]. 袁树仁译。北京:三联书店,1987. [9] Như trên. [10] 梁志明. 论越南儒教的源流,特征和影响 [J]. 北京大学学报(哲学社会科学版),1995,(1):26—33. [11] Như trên. [12] Như trên. [13] 黄河黄. 越南汉字之殇 [EB/OL].
Tác giả Vũ Thế Khôi Trong giới Hán học Trung Quốc và Việt Nam khá phổ biến ý kiến khẳng định rằng ngay từ cuối đời Tần cuối thế kỷ thứ III TCN chữ Hán đã bắt đầu được truyền vào Bắc bộ Việt Nam. Căn cứ duy nhất của họ là đoạn ghi trong Sử ký Tư Mã Thiên “Năm 33 tức 214 TCN – Tần Thuỷ Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải; cho những người đi đày đến đấy canh giữ”. Cũng dựa vào đoạn ghi chép đó, PGS Trần Nghĩa Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho rằng những người bị đi đày này “… nghiễm nhiên trở thành những sứ giả chở chữ Hán và tiếng Hán tới phương Nam”. Sử ký Tư Mã Thiên là bộ sử liệu vĩ đại đáng tin cậy, nhưng từ một đoạn ghi chép trên mà suy luận rằng chẳng những tiếng mà cả chữ Hán được truyền đến Bắc bộ Việt Nam cùng đạo quân viễn chinh nhà Tần thì e chỉ là võ đoán. Vì vấn đề lại có ý nghĩa nguyên tắc từ góc độ giao lưu văn hoá Trung-Việt, nên cuối năm 2003, tại “Hội thảo quốc tế về truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt”, họp ở Thâm Quyến 19-21/12/2003, chúng tôi đã dành nửa đầu của báo cáo để đặt lại vấn đề với 2 ý kiến tranh luận, đó là 1. Cùng với cuộc viễn chinh của quân Tần, bất quá mới chỉ có sự lan truyền tự nhiên không thể gọi là truyền bá! khẩu ngữ tức tiếng Hán, thường song hành với mọi cuộc xâm lấn và di dân, chứ chưa thể có chuyện truyền bá chữ Hán; 2. Chỉ sau khi Triệu Đà, Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải, lợi dụng thời cơ nhà Tần sụp đổ, năm 207 chiếm lĩnh 2 quận Quế Lâm và Tượng Quận, thiết lập vương triều cát cứ Nam Việt quốc 207-111 TCN, 18 năm sau thôn tính nốt nước Âu Lạc 208-179 TCN của An Dương Vương, chữ Hán mới thực sự được truyền bá, tức được dạy một cách có chủ định ở vùng đất Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay . Chứng minh ý kiến thứ nhất, chúng tôi biện luận như sau Theo chính Hán thư thì Tượng Quận không phải là Bắc bộ Việt Nam mà là vùng đất phía tây của Quảng Tây và phía nam của Quý Châu, như vậy thì trong cuộc viễn chinh vào miền đất Lĩnh Nam của Bách Việt, quân Tần mới chỉ đánh chiếm được vùng đất của Mân Việt Phúc Kiến, Quảng Đông, Dương Việt và Tây Âu Việt Quảng Tây và một phần Quý Châu, nhưng chưa chiếm cứ được đất Lạc Việt tức nước Âu Lạc của An Dương Vương. Một sử liệu đáng tin cậy khác là bức thư của Hoài Nam Vương Lưu An dâng lên can gián Hán Vũ Đế 140-86 trước CN đem quân vào đất Việt, đã miêu tả quân Tần từng bị khốn đốn ở đất Việt Lạc Việt? – như sau “Đời Tần sai quan uý Đồ Thư đánh đất Việt, người Việt trốn vào rừng núi, đánh không được, đóng quân ở vùng đất trống không, lâu ngày quân lính mệt mỏi, rồi người Việt ra đánh, quân lính Tần đại bại” . Sách Hoài Nam tử, cũng do chính Lưu An biên soạn, tả cảnh bại trận của quân Tần còn thê thảm hơn “Trong 3 năm không cởi giáp dãn nỏ… Người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư, thây phơi huyết chảy hàng mấy chục vạn người”. Năm 214 mới chiếm được vùng Lĩnh Nam, đến đất Việt 3 năm chiến đấu liên miên “không cởi giáp dãn nỏ”, bị thảm bại chủ tướng bị giết, sĩ tốt thì phơi thây; 8 năm sau, 206, nhà Tần đã diệt vong, vậy thời gian đâu mà truyền bá chữ Hán? Nêu ý kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá được dạy và học có chủ định từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là a sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ, tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lý dân Lạc Việt; vậy thì để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa ở triều đình trung ương và người Việt ở phủ, huyện, làng xã. b Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đã chủ trương dung hợp văn hoá Hoa – Việt, tạo ra những dòng họ hỗn huyết Hoa-Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt. Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xã, chúng tôi đã cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó dùng Lữ Gia mà chínhSử ký Tư Mã Thiên gọi là “Việt nhân” đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý Bôn Nam Đế – và ghi nhận Gia “làm Thừa tướng 3 đời vua… Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua…; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương”. Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt trong thư dâng Hán Văn Đế 179-156 trước CN ông viết “Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu”. Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động “xoã tóc, ngồi chò hõ tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa – mà tiếp” và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà “phản thiên tính” tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán! “Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi” tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!. Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ Lã là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt. Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết Triệu Đà … “thúc đẩy chính sách dân tộc “hoà tập Bách Việt”, xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán – Việt và phát triển kinh tế – văn hoá” . Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt “Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến”. Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng “Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] – Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống 1075-1077 khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng…”, tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược. Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia nay là phố Lê Ngọc Hân. Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự “bị động cơ chính trị chi phối”, khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ 1726-1780 viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án “… làng Đường Xâm quận Giao Chỉ nay là Đường Xâm huyện Chân Định có miếu thờ Triệu Đà…” Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương “Tỉnh Thái Bình” trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ “Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư”. Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm. Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công “hoà tập Bách Việt”, phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang =Lĩnh nam chi quang, họ Triệu đã Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương chắt của Triệu Đà con là thái tử Anh Tề phải vào làm con tin tại triều đình nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi còn trên đất Trung Quốc, đã là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý, nay thấy Thiếu Quý sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin “nội thuộc” nhà Hán… “bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước “Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc…”. Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán…; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ Đại Việt sử ký toàn thư ghi “mẹ” – là người Việt, làm vua…, đem quân đánh bọn Thiên Thu tướng nhà Hán, diệt được họ cách Phiên Ngung nay là Quảng Châu 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu” chúng tôi nhấn mạnh – . Rõ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng “Việt nhân”, “được lòng dân hơn vương”, là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đã chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đã viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân-Hà Nội “Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận” . Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt. Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lý-Trần TK XII-XIII chép “Nhà Triệu” ngang hàng với các “Nhà” Ngô, Đinh, Lê Đại Hành, Lý. An Nam chí lược đầu TK XIV, do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ “kỷ” mà Tư Mã Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là “thế gia” “Triệu thị thế gia” ngang hàng các “thế gia” Đinh, Lê, Lý, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trãi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lý, Trần. Trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố Xét như nước Đại Việt ta, Thực là một nước văn hiến. Cõi bờ sông núi đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Theo tinh thần đó Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là “ngoại thuộc”, để phân biệt với giai đoạn “Bắc thuộc” sau này, khi nước ta “nội thuộc” Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ còn vì lý do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là “Nam Việt”, nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đã đặt ra. Để rạch ròi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu “Việt Nam”, nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đã thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không còn tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược viết 1919, in 1921 mới lại đưa “nhà Triệu” vào quốc thống Đại Việt. Nếu Quang Trung không mất sớm thì sẽ ra sao nhỉ? Nhưng lịch sử không chấp nhận chữ “nếu”. Lịch sử đã an bài từ lâu. Ngày nay Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng hữu nghị, với biên giới đã xác định. Bởi vậy trong báo cáo tại Hội thảo Thâm Quyến 2003, chúng tôi đã nói rõ chỉ xem xét vương triều Triệu Đà thuần tuý từ góc độ giao lưu văn hoá. Nay xin một lần nữa nhấn mạnh như vậy. Nguồn Tạp chí Xưa và Nay số 256 tháng 8/2006 & Talawas
Nhớ lúc bấy giờ đâu là năm 1928, tôi ở Sài Gòn có viết mấy bài bằng chữ Hán, ký tên Khải Minh Tử, gửi cho Hoa kiều Nhật báo ở Chợ Lớn, được họ lần lượt đăng tải và có để lời khen tặng ở một cái mào đầu. Trong mấy bài ấy có một bài đầu đề giống như đầu đề trên đây, đại ý tôi khoe với người Tàu rằng văn học chữ Hán ở nước Việt Nam thuở xưa phát đạt lắm. Tôi lược cử ra những thi văn đời Lý, đời Trần cho đến đời Nguyễn gần đây. Cuối cùng, tôi cho họ biết rằng các nhà văn chữ Hán xứ này có một cái đặc sắc là hay tự tạo ra văn thể mới. Tức như Thu dạ lữ hoài ngâm 秋 夜 旅 懷 吟 làm bằng thể lục bát gián thất; lại hai bài ca trù một bài đề là Bùi viên đối ẩm 裴 園 對 飲 của Nguyễn Văn Thắng; một bài đề gì và của ai không biết, mở đầu là Phong thanh nguyệt bạch, Tô Đông Pha xích bích chi du… 風 清 月 白 , 蘇 東 坡 赤 壁 之 遊 … Các văn thể ấy có phải là chính bên Tàu không hề có, mà nhờ tác giả Việt Nam chế tạo ra làm cho cái kho văn học chữ Hán thêm giàu? Lại nhớ như bài ấy, tôi đã có lần dịch ra quốc ngữ đăng lên một tờ báo nào đó mà tôi quên.[1] Lần này tôi viết bài này ở đây, tuy đầu đề giống nhau mà lập ý thì khác. Từng có người nói Lòng ái quốc không thể cứ một mực, có khi bởi nó mà mình nói tốt cho nước mình, cũng có khi bởi nó mà mình lại nói xấu cho nước mình. Hai lần tôi viết đây, chính tôi cũng không tự biết có phải bởi lòng ái quốc hay không; tôi chỉ thấy rằng lần trước viết bằng chữ Hán, đăng báo Tàu, đối với người Tàu, tôi có ý tuyên truyền cho tổ quốc Việt Nam; lần này viết bằng chữ ta, đăng báo ta, tôi muốn chỉ cho đồng bào thấy cái chân tướng của văn học cổ xứ mình. Như vậy chẳng là mâu thuẫn nhau? Tôi tưởng chả có gì đến nỗi. Một cái mề đay, hôm qua cho người ngoại quốc xem, tôi chỉ đưa bề mặt, hôm nay cho người bản quốc xem, tôi đưa luôn cả bề trái nữa, thế thôi. Trước hết tôi muốn bạn đọc biết rằng, viết bài này, tôi rứt không có ý chê hay trách các bậc văn sĩ tiền bối xứ ta. Nếu có những chỗ chỉ trích ít nhiều khuyết điểm của họ là chính để thấy rằng nền văn học của một nước nếu không lập lên trên tiếng nói của nước ấy thì đừng có mong nó được vững bền và rực rỡ. Người nước Nam, nói thì nói tiếng nước mình, viết thì viết chữ nước khác, tay còn không theo được miệng thay, bảo sao lời cho đạt được ý? Chính vì đó mà văn học chữ Hán của ta đã không thành ra một văn học chân chánh xứng với danh từ nó như của Trung Hoa. Ấy là một cái lầm chung của cả một thời đại từ xưa, chứ chẳng phải cái dở, cái bất tài riêng của từng người một mà đáng để cho chúng ta ngày nay chê hay trách vậy. Cái văn học cổ ấy hiện nay đã tiêu diệt đi, nhường chỗ cho văn học quốc ngữ, đó thật là một điều may mắn cho dân tộc chúng ta. Tuy vậy, đã có quan hệ với nhau một ngàn năm, trong cơn vĩnh biệt, chẳng nhiều thì ít, nó há lại chẳng có cái gì làm cho ta quyến luyến? Tôi muốn nói đương lúc văn học chữ Hán của người Việt Nam tàn tạ, đáng lẽ, trong nó, nếu có tác phẩm gì hay, cần phải dịch ra quốc ngữ để làm hòn đá tảng, không thì cũng một viên gạch, một tấm ngói cho cái lâu đài văn học mới sau này. Nhưng than ôi! Theo tôi thấy thì hình như không có, và nếu có cũng ít lắm! Cả thảy chỉ một món lịch sử, bòn đãi lắm may ra còn hữu dụng; kỳ dư, những thi, những văn, những tiểu thuyết, cái đáng gọi là văn học thực mặt, thì lại vắng vẻ làm sao! Thử hỏi từ thời Lý đến nay có một cuốn sách nào về hạng ấy có thể đại biểu cho một thời đại hay cho một cá nhân mà bây giờ chúng ta cần phải dịch ra mới được? Thật không có! Người Pháp sang đây, muốn biết văn chương tiếng An Nam thế nào thì họ đã dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du ra, vì nó xứng đáng đại biểu cho tiếng An Nam; còn chúng ta, chúng ta muốn biết văn chương chữ Hán của tổ tiên mình trong khoảng một ngàn năm vừa qua thì lại không tìm được một cuốn sách nào mà dịch hết! Đó chẳng phải một cái chứng cứ hiển nhiên, đủ thấy văn học chữ Hán của ta hồi trước còn ở dưới mực thủy bình? Nhưng không có thể chê trách những người học và viết chữ Hán trong một ngàn năm ấy được. Là vì chữ Hán không đủ dịch hết tiếng nói An Nam, không đủ ghi hết sự vật trong xã hội An Nam; ý tưởng của người An Nam không ngẫm nghĩ và phô bày bằng nó, thì làm sao hai đằng thân thiết với nhau cho được? Học sách vở của thánh hiền ngoại quốc, rồi nghĩ và viết ra cũng theo tư tưởng của thánh hiền ngoại quốc; những kẻ ấy khi họ hạ bút, họ có thể quên cả sự vật chung quanh mình và quên luôn cả mình nữa; những tác phẩm của họ không đại biểu cho thời đại được mà cũng không đại biểu được cho cá nhân, là lẽ tất nhiên. Cái công dụng của văn học là ở sự biểu hiệu và phê bình; mà, cho được biểu hiệu và phê bình, người mình lại dùng một thứ chữ không quen, không sành, hóa ra mất cả hai cái công dụng ấy. Chữ Hán ở bên Tàu lập nên nền văn học thế nào, còn ở bên ta thế nào, chỗ đó, phần nhiều người mình còn chưa thấy đến nơi. Ở bên Tàu tuy cũng có văn chương khoa cử, tức những bài làm để đi thi, lại cũng có văn chương thù ứng, tức như ở ta câu đối bức trướng; nhưng thứ văn chương ấy, họ không kể cho vào văn học. Văn học của họ đại khái chia làm hai hạng một về nghĩa lý, là những tác phẩm có quan hệ với kinh sử học thuyết; một về từ chương, là những tác phẩm thuần có tính chất mỹ văn. Ở đây, những người xưng là đại nho, như Chu Hy, Vương Thủ Nhân, phải có những trứ thuật về hạng trên; những người xưng là văn hào, như Hàn Dũ, Tô Thức, phải có những trứ thuật về hạng dưới. Nước ta, về hạng trên, phải kể như là không có. Vì dù có mà nó thấp thỏi, vụn vặt, không ra gì, thì cũng không kể được với ai. Cuốn Nho giáo 儒 教 của Trần Trọng Kim mới xuất bản gần đây, cho đi rằng nó không hoàn toàn nữa, thử hỏi một ngàn năm nay đã có người An Nam nào làm được cuốn sách bằng Hán văn nào như nó? Minh đạo 明 道 mười bốn thiên của Hồ Quý Ly, dám nghi bốn điều trong Luận ngữ 論 語 và công kích Tống nho, có lẽ còn đỡ đỡ, nhưng tiếc thay lại không truyền! Ngoài ra, những sách như Quần thư khảo biện 群 書 考 辩 của Lê Quý Đôn cùng những bài biện thuyết ngăn ngắn về sách xưa như trong tập Vĩ giã 葦 野 thì chưa hề phát minh được nghĩa gì to tát, chỉ đáng coi là một mớ tháp ký của học sinh, chẳng có giá trị là bao. Hồi nhà Trần có Chu An, trước đây bờ một trăm rưỡi năm ở Gia Định có Võ Trường Toản, đều là bậc đại sư nho, nổi tiếng như cồn, mà rủi cho dân tộc này làm sao, các ngài lại chẳng để lại một chữ gọi là có! Về hạng dưới, từ chương, để rồi dưới đây tôi sẽ nói đến. Ở đây tôi muốn cho bạn đọc biết ngay thử trong một ngàn năm ấy người mình học chữ Hán đã có sở đắc những gì. Hầu hết người đi học ở nước ta chỉ biết có một lối văn khoa cử. Xưa nay những người nổi tiếng học giỏi và hay chữ đều chỉ bởi nhớ nhiều điển cố để làm bài và làm bài hay. Cho đến các cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng gần đây cũng đều thế cả. Tôi còn nhớ trong sách dã sử có một nơi chép truyện ông Bảng nhãn gì đó ở làng Mộ Trạch, lúc chưa đỗ, đã lừng tiếng một thời. Một hôm có vị danh sĩ gặp ông, muốn thử tài, ra cho một bài phú, đề là Kỳ lân du uyển hựu 麒 麟 遊 苑 囿. Tức thì ông cất bút thảo ngay bốn câu mở Qui phi xuất lạc, long bất trình hà, y bỉ hữu hùng chi quốc, đô vu trác lộc chi a 龜 非 出 洛 , 龍 不 呈 河 , 意 彼 有 熊 之 國 , 都 于 涿 鹿 之 阿[2]. Vị danh sĩ kia thấy viết đến đó đã kinh hoàng sửng sốt, bái phục là thiên tài rồi, không để làm hết bài nữa! Xem ý người chép sử như cho cái việc ông Bảng nhãn làm đó là một kỳ công trong học giới và bốn câu phú đó là một kiệt tác trên văn đàn, không thể không trịnh trọng chép vào sách của mình để truyền cho hậu thế! Đến các ông trạng, như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, ông nào cũng sính câu đối, đã làm cho một nhà viết văn khảo cứu, ông Trần Thanh Mại, có lần phải gắt lên trong một bài ở báo Phụ nữ thời đàm. Rồi đến Nguyễn Thị Điểm, một nữ tài tử nổi danh thuở Hậu Lê, cũng tại câu đối mà thôi Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi; Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết 白 蛇 當 道 , 季 坺 劍 而 斬 之 , 黃 龍 負 舟 , 禹 仰 天 而 嘆 曰 cùng với Đối kính họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm; Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân 對 鏡 畫 眉 , 一 點 翻 成 兩 點 , 臨 池 玩 月 , 隻 輪 轉 作 雙 輪[3], thế là đã rất mực tài tình, làm cho tác giả Nam hải dị nhân liệt truyện tỏ ý phục lăn ra! Giữa cuộc bang giao hai nước, muốn khoe tài văn học của nhau, người ta cũng đã sính chữ Hán một cách oái oăm đáo để. Đây là hai truyện có chép trong Tiền biên liệt truyện 前 編 列 傳 Dưới triều chúa Nguyễn Hy Tôn,[4] chúa Trịnh lấy danh nghĩa vua Lê, sai sứ mang tờ sắc vào phong cho chúa Nguyễn chức Thái phó quốc công. Bấy giờ Chúa Nguyễn có vị mưu thần Đào Duy Từ khuyên hãy tạm nhận rồi sau sẽ trả. Đến khi trả sắc, Duy Từ vẽ làm một cái mâm đồng hai đáy, bỏ tờ sắc vào trong, kèm một mảnh giấy có viết mười sáu chữ, luôn với lễ vật, sai sứ đem ra bắc dâng Chúa Trịnh. Sau, cái mâm đồng khui ra, thấy mười sáu chữ ấy là Mâu nhi vô dịch, mịch phi kiến tích, ái lạc tâm trường, lực lai tương địch 矛 而 無 腋 , 覔 非 見 跡 , 愛 落 心 腸 , 力 來 相 敵 Chúa Trịnh cùng cả đình thần đều chẳng hiểu nghĩa chi. Chỉ một mình Thiếu úy Phùng Khắc Khoan biết được mà thôi, ông ấy giải ra thành bốn chữ Dư bất thụ sắc 予 不 受 敕, nghĩa là ta chẳng nhận lời sắc.[5] Lần khác, dưới triều Chúa Nguyễn Thái tôn[6], người Trịnh muốn thử nhân vật Nam triều, bèn đưa vào tặng một cái trống lớn với một phiến gỗ vuông dài chừng một thước, trên mặt gỗ viết ba chữ Hồ bất thực, 狐 不 食 thếp vàng. Chúa Nguyễn hỏi khắp mặt triều thần, không ai biết gì cả. Sau hỏi đến Võ Đình Phương là tay bác học thời ấy, Đình Phương thưa rằng “Ba chữ ấy chỉ là người Bắc nói lái để thử ta có biết không mà thôi. Hồ bất thực 狐 不 食 nghĩa là cáo chẳng ăn. Mà cáo chẳng ăn thì cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo. Vậy phiến gỗ này nó là bằng cây gạo”. Nghĩa lý mắc mỏ chỉ có thế; còn cái trống thì khi đem đánh, nó cũng chẳng khác gì cái trống thường. Từ đoạn dẫn dã sử đến đây, tôi muốn trưng ra mấy cái chứng cứ để thấy rằng cái sở đắc của mình học chữ Hán chỉ có thế. Chỉ có một cái tiểu xảo trong văn học, tiếng Pháp gọi là “Jeu de mots”[7] là người mình hơi có khiếu sở trường. Thì đó, bốn câu phú của ông Bảng nhãn, hai câu đối của Nguyễn Thị Điểm, mười sáu chữ nọ với ba chữ kia làm cho Phùng Khắc Khoan và Võ Đình Phương có dịp trổ tài, hết thảy đều là một cách “Jeu de mots” chứ có gì lạ! Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng. Hay chữ có tiếng nhất nước như ông Vũ Phạm Hàm cũng chỉ nhờ bài phú Điệu cao sơn đại xuyên trong khoa đậu hội, như ông Phan Bội Châu cũng chỉ nhờ bảy bài kinh nghĩa kiêm trị trong khoa đậu giải nguyên. Ông Vũ Phạm Khải được đức Dực Tôn ban khen là thế, tưởng có cái đặc sắc thế nào, ngờ đâu đọc văn tập của ông làm cho mình thất vọng Nhan nhản, hết bài tự tặng người này, đến bài khải dâng người khác, té ra trời phó cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là chỉ đi thù phụng thiên hạ mà thôi! Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng, và trong văn học, họ chỉ sở trường một cách “Jeu de mots” mà thôi thì cũng chẳng quá nào! Nói về thi, văn, tiểu thuyết, không kể phần dở, dù phần hay là phần rất ít đi nữa là của người mình cũng không sánh kịp của người Tàu. Bởi chúng ta cứ rập theo khuôn sáo họ, hứng lấy cặn bã họ, người An Nam mà văn chương chẳng có một chút gì là đặc tính của An Nam, thành thử chúng ta, dù đến trên loài mỹ văn ấy, cũng không lập nổi một nền văn học riêng cho mình. Một vài ông vua nước Nam đã làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm rằng văn học nước mình cũng ngang hàng với Trung Quốc. Sự thác giác ấy làm hại cho quốc dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ. Vua Lê Thánh Tôn một đêm ngự bóng mát chốn nội đình, trông lên trời thấy vầng trăng đương sáng tỏ bỗng bị che khuất bởi đám mây bay ngang, đám mây bay khỏi rồi, vầng trăng lại sáng tỏ như trước, cảm xúc làm nên hai câu 素 蟾 浩 浩 玉 盤 清 , 雲 弄 寒 光 暗 復 明 “Tố thiềm hạo hạo ngọc bàn thanh, vân lộng hàn quang ám phục minh”.[8] Thế mà ngài dám tự phụ rằng không ai làm được, cho đến Đỗ Phủ cũng không, chỉ một mình ngài làm được mà thôi. Ngài lại còn đem hai câu ấy so sánh với bốn câu giữa trong bài 錦 瑟 “Cẩm sắt”[9] của Lý Nghĩa Sơn mà nói rằng bốn câu ấy của Lý, về phần mầu lạ xinh xắn thì bằng hai câu của ngài, nhưng về phần sáng suốt trong trẻo thì hãy còn kém. Lần khác, Thánh Tôn phê bình hai câu của Thân Nhân Trung, quan đại học sĩ tại triều mình 瓊 島 夢 殘 春 萬 頃 , 寒 江 詩 落 夜 三 更 “Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn khoảnh, hàn giang thi lạc dạ tam canh”,[10] cũng hợm hĩnh rằng dù cho Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức cũng vị tất đã nghĩ được ra. Mẩu truyện này có chép trong sách Việt sử thực lục cuốn 13, tôi nhớ mà thuật ra đây chứ không dịch đúng nguyên văn. Gần nay người ta còn truyền tụng hai câu thơ phê bình thi văn bản triều 文 如 超 适 無 前 漢 , 詩 到 從 緌 失 盛 唐 “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”[11] mà nói là của vua Thiệu Trị hay của vua Tự Đức. Của vua nào cũng thế, cái công hiệu thổi phỉnh lòng tự khoa của người nước cũng chẳng kém mẩu chuyện vừa kể của Lê Thánh Tôn. Dưới triều vua này, vũ công với văn trị đều cực thịnh. Bao lần đánh Chiêm Thành, Bồn Man, Lão Khoa, đánh đâu thắng đó, làm cho vua Tàu cũng phải nể. Sử chép ngày 27 tháng 8 năm Hồng Đức 11, sau khi đại phá Lão Khoa, vua nhà Minh có đưa sang một tờ sắc, nói “Vừa rồi tỉnh thần Vân Nam có tâu về, nói An Nam quốc vương đã vô cớ cử binh công phạt xứ Lão Khoa, hiện chưa lui binh, còn muốn sang xâm lược xứ Bát Bách Tức Phụ nữa. Vì vậy sắc sang hỏi vua nếu có, phải lui binh ngay; còn không thì phúc tấu lại, để triều đình xét và bắt tội kẻ man báo”. Liền ngày ấy vua Thánh Tôn họp triều thần lại thảo lời phúc tấu, đại ý nói “Có 13 tên dân bản quốc trốn sang bên Lão Khoa; nhân đó sai người đến tại biên giới đòi về, thì đã đem xe chở chúng về rồi; chứ còn những việc đánh Lão Khoa và Bát Bách Tức Phụ vốn không biết tới”. Bản phúc tấu ấy đưa sang, vua nhà Minh vẫn làm thinh, coi như là sự thực. Nhưng sự thực của sự thực là trước đó một năm, tháng 8 năm Hồng Đức thứ 10, vua Thánh Tôn quả có sai các tướng đem mười tám vạn binh, chia làm năm đạo đi đánh Lão Khoa, vào tận đô thành nước ấy, đuổi vua, bắt nhân dân của họ, rồi còn đánh dốc đến ranh sông Trường Sa, nơi Lão Khoa giáp với Diến Điện, khi được văn thơ người Diến kháng nghị mới chịu rút quân về. Ấy, vua Thánh Tôn ngài đã quen mui, tưởng việc văn cũng như việc võ về việc đánh Lão Khoa, có nói làm không mà vua Minh cũng nghe được, thì về việc thi văn, dở nói làm hay, người Tàu còn có ai dám cãi lại ngài? Nhưng “văn chương là việc ngàn xưa”, dở hay còn có đó, không ai nói theo ý riêng mình được. Thực ra thì câu thơ của vua không đến nỗi dở chứ nó khí tầm thường quá. Nội bảy chữ đầu đã trùng điệp với nhau rồi “tố thiềm hạo hạo” có khác gì với “ngọc bàn thanh”, chỉ có một nghĩa là vầng trăng sáng. Thế mà câu dưới còn tiếp hai chữ “hàn quang” nữa, cũng lại sáng trăng! Về ý thì rất xoàng, có gì lắm mà bảo không thi nhân nào làm nổi? Đến đem mà sánh với bốn câu của Lý Nghĩa Sơn thì thật là quá phận. Bốn câu này hay mà có vẻ thần bí, đến nỗi từ đời Tống đến nay có bao nhiêu nhà chú thích đã giải nghĩa không giống nhau. Còn câu của vua rất dễ dàng, hễ ai biết chữ là hiểu được. Nó vốn không đồng một tánh chất, đem mà sánh nhau, khác nào đem cái đền Ngọc Sơn giữa hồ Hoàn Kiếm sánh với Kim tự tháp bên Ai Cập! Sau nữa, câu của Thân Nhân Trung, nếu cho vế trên là được thì vế dưới thật không xứng. Nhất là hai chữ “thi lạc” e đến không có nghĩa. “Thi” làm sao lại “lạc” được? Chỉ hai chữ không có nghĩa đủ làm hỏng cả câu. Thế thì hẵng làm cho có nghĩa đã rồi hãy nói chuyện bầy vai với Lý, Đỗ, Âu, Tô! Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn, đáng gọi là thịnh hơn các triều trước; nhưng nếu bảo vượt quá cả Hán, Đường thì lố quá. Nguyễn Văn Siêu còn có Phương Đình văn tập truyền lại, thức giả còn có thể đem đọ với văn Tiền Hán thử ra sao. Tùng Thiện Vương có tập thi Thương Sơn, Tuy Lý Vương có tập thi Vĩ Giã, muốn biết giá trị nó đối với Thịnh Đường thế nào, đọc qua thì biết. Tôi thì tôi tin quyết rằng Hán Đường là kẻ sáng tạo, Siêu, Quát, Tùng, Tuy là kẻ học đòi; không bao giờ kẻ học đòi lại vượt qua kẻ sáng tạo cho được. Nói cho công bằng ra thì trong ngần ấy tác giả, duy có Cao Bá Quát, là cả thi lẫn văn đều đáng sắp ngang hàng với đệ nhất lưu tác giả ở Trung Quốc mà không hổ mà thôi. Rủi cho ông, vì mang tội “đại nghịch” nên tập không được in, tên họ bị vùi dập đi hơn nửa thế kỷ đến gần nay mới có người nhắc đến! Những lời tự khoa thái quá ấy cần phải cải chánh. Sau khi cải chánh chúng ta mới có thể tìm thấy cái mực thực của văn chương chữ Hán nước mình. Đại để trong các món, duy món thi, người mình còn có thể làm được. Vì thi có khi dùng một số chữ rất ít, chỉ mười mấy hay vài mươi chữ cũng thành một bài, không cần phải có cái lực lượng hùng vĩ mới làm nổi; lại trong thi, về mặt văn pháp cũng rộng rãi, không nhặt nhiệm lắm như tản văn. Hai điều kiện khoan dung đó thích hợp với cái tài vận dụng chữ Hán của người An Nam, cho nên về văn chương chữ Hán, người An Nam đã làm món thi nhiều hơn các món khác, và về món thi cũng có sở trường hơn các món khác. Trừ ra thơ của một hạng thi nhân gọi là “thợ thơ” thì trong làng thơ chữ Hán của ta không phải không có thơ hay. Nhất là vào hồi Lý Trần, bấy giờ kẻ học chưa nhiễm phải cái độc khoa cử nên trong ngâm vịnh thường có nhiều tánh tình và phong thú. Bạn đọc hãy tìm chứng cứ trong pho Hoàng Việt thi tuyển. Tiếc thay hạng thơ ấy, chúng ta chỉ có thể thưởng thức ở các tác phẩm rải rác mà không thể chỉ hẳn ra được một tác giả nào. Mãi đến gần đây mới được một Cao Bá Quát. Ông này, theo thời luận thì nổi tiếng về văn, nhưng văn của ông ít truyền lắm, ngày nay chỉ còn bộ Cao Chu Thần thi thảo chép tay, ấy là thơ của ông, chừng được ba bốn trăm bài. Ba bốn trăm bài ấy giá ở bên Tàu thì nó đã được in ra, làm cho tác giả nhảy lên đứng ngang hàng với Đỗ Thiếu Lăng, Tô Đông Pha chẳng hạn, nhưng ở nước ta phải đành mai một! Đọc Cao Chu Thần thi thảo, thấy cái thân thế, cái phẩm cách, cái tư tưởng của tác giả nó mà khiến mình trạnh lòng tương cảm ở sau sáu, bảy mươi năm. Con người ấy mà ở vào thời đại ấy trong đất nước này, nếu chẳng phải thi đỗ làm quan cho tột bực đi thì còn làm gì nữa mà không làm giặc! Ngoài ra, cũng có những thi tập của những người khác đã được ấn hành, nhưng lại không vì cớ ấn hành mà không mai một! Hạng thơ ấy nói vượt qua Thịnh Đường thì khí quá, dù cho giống hệt với Thịnh Đường đi nữa mà không có ngụ một chút tánh tình quan hệ mảy may với thời đại thì cũng bị đào thải bởi luật tự nhiên. Trái lại, một vài câu xuất sắc, khiến người ta cảm được, như “Học đắc trường sinh bí, bất cầu thiên hạ văn” thơ hái thuốc[12], “Sơn nhân tự lai vãng sơn thâm nhân bất tri” thơ đi đường núi của Nguyễn Hương[13]; “Cô phẫn khí thành thiên khả vấn, độc tinh nhân khứ quốc cơ không” thơ vịnh Khuất Nguyên của Phạm Lam Anh thì lại nhờ được người ta truyền tụng mà còn ghi trong sử sách.[14] Văn, tản văn hay biền văn cũng vậy, như trên đã nói, khó hơn thi, cho nên người mình ít làm và làm cũng ít hay. Phú của Mạc Đĩnh Chi thì sao cho bằng phú của Giả Nghị, của Tô Thức? Ký của Trương Hán Siêu thì sao cho bằng ký của Hàn Dũ, của Âu Dương Tu? Chính người An Nam lại ưa phóng tụng văn Tàu mà nhãng quên văn nước mình, chẳng phải là không có cớ. Hịch của Trần Quốc Tuấn, đại cáo của Nguyễn Trãi mà được chúng ta coi làm báu, chẳng qua nhờ trong đó nhuộm đậm màu quốc gia đấy thôi, chứ cứ kể văn chương còn chưa thấm vào đâu. Tiểu thuyết, không có trường thiên, chỉ có đoản thiên mà cũng không được đúng với tên ấy lắm, tức như Truyền kỳ mạn lục và Vân nang tiểu sử[15] Những tác phẩm ấy, thứ thì tuyệt bản rồi, thứ thi còn chép tay, nhưng, giả sử từ trước người ta đã in ra cho thật nhiều là cũng không bán tranh nổi với Liêu trai chí dị hay Tử bất ngữ của Tàu. Kể ra thì hết thảy văn chương các món, đằng lượng cũng như đằng phẩm, ta đều còn kém Tàu xa. Cái kém ấy đáng lắm, không ai trách được. Chỉ trách sao còn có người không chịu là kém mà lại kiếm lời tưng bốc nhau, nói trái với sự thực, đã gieo một sự mậu ngộ lớn vào trong óc mọi người luôn với sự kiêu căng nữa. Bài này vì đầu đề là khái luận, cho nên về các tác phẩm và tác giả không thể nói tường tận hơn, tôi cũng lấy làm đáng tiếc, nhưng tôi phải ngừng bút ở đây để bắt đầu kết luận đi. Lúc hai mươi tuổi, tôi được đọc cuốn Việt Nam vong quốc sử ở Nhật Bản gởi về; ngoài cái cảm tưởng mới lạ nẩy ra cho tôi lúc bấy giờ, tôi còn nhờ đó bắt đầu có một điều xét nhận về sự người An Nam viết chữ Hán. Cuốn sách ấy, ông Lương Khải Siêu đứng tác giả, nhưng cả phần chính văn do cụ Phạn Bội Châu soạn, ông Lương chỉ viết mấy tờ đầu như cái tiểu dẫn. Trong phần như tiểu dẫn ấy, ông Lương có nói một cậu tợ hồ phân bua với độc giả người Tàu mà rằng, trong sách nếu có chỗ văn không được nhã thuần, ấy là vì muốn để y cho còn cái chơn tích của tác giả, cụ Phan, nên không hề sửa chữa một chữ nào. Đọc câu phân bua đó tôi phải ngẩn người ra, tôi phải đánh dấu trong đầu một sự chú ý rất lớn à, té ra học giỏi như Phan Bội Châu của An Nam, văn hay như Phan Bội Châu của An Nam mà viết ra người Tàu còn bảo là có chỗ không được nhã thuần! Nhã 雅 là nhã nhặn, đối với tục; thuần 馴 là như con thú rừng đem về tập luyện đã lành đi dompté. Viết văn mà không được nhã thuần, nghĩa là còn pha giọng tục, còn như con voi lung lăng chưa chịu vố, bành; con ngựa hay cất hay đá, chưa chịu cương, khớp. Người ngoại quốc viết tiếng Pháp, có nhiều câu không sai mẹo, không tối ý, người Pháp xem vẫn hiểu nhưng không cho là được, gọi là pasfrançais. Thì khi người ngoại quốc viết văn Tàu mà bị phê là không được nhã thuần, cũng có nghĩa như thế, nghĩa là paschinois vậy. Sau khi tôi thấy ông Lương Khải Siêu phê văn cụ Sào Nam rằng còn có chỗ paschinois, tôi bèn để ý xem lại văn của những người An Nam khác viết thì quả nhiên thấy ra có nhiều chỗ paschinois lắm. Lấy ví dụ gần đây cho bạn đọc có thể kiểm soát được, thì không đâu bằng lấy ở phần chữ Hán của tạp chí Nam phong. Trong đó nhan nhản những chữ người ta đã dùng chẳng ra Tàu chút nào cả. Nhất là chữ nhưng 仍 đem dùng như chữ nhiên 然 , chữ sí 啻 đem dùng như chữ thí 譬 thì đến ông Lương Khải Siêu cũng không hiểu nếu hồi còn sống ông có đọc! Nhưng cái thời đại báo Nam phong là thời đại chữ Hán ở nước ta đã tàn tạ rồi, không đáng trách lắm; tôi xin trình bạn đọc một bộ sách do Sử quán làm ra hồi Tự Đức mà trong đó còn có nhiều câu đầy những lỗi về văn pháp, không thể dung thứ được. Ấy là bộ Đại Nam chánh biên liệt truyện sơ tập, biên tập xong năm Tự Đức thứ năm, do hai ông Trương Đăng Quế và Võ Xuân Cẩn làm tổng tài, còn các quan toản tu toàn là người khoa giáp. Đây, tôi trích ra một vài cái lỗi của sách ấy Cuốn 23, truyện Lê Văn Duyệt, tờ 31, chỗ nói chuyện ông Duyệt để năm chục quan tiền giữa nhà, thình lình mất đi, đi tìm thì thấy “có người lót tiền mà ngồi trên nóc nhà” mà biên rằng 有 屋 上 者 載 錢 踞 坐 hữu ốc thượng giả tại tiền cứ tọa thì thật là không có nghĩa. Vì theo văn pháp, khi đặt 有 …. 有 cách ấy thì giữa nó phải có verbe mới được, mà ở đây chẳng có verbe nào hết. Nếu chữa lại 有 載 錢 踞 坐 於 屋 上 者 hữu tại tiền cứ tọa ư ốc thượng giả thì có nghĩa hơn. Cuốn 30, truyện Nguyễn Văn Nhạc, tờ 15, chỗ nói Nhạc nghe Huệ chết, chính mình đem hơn ba trăm liêu thuộc cùng em gái ra thăm, đi đến địa đầu Quảng Ngãi thì “bị viên đồn trưởng của Huệ ngăn lại” mà biên là 爲 惠 屯 將 阻 之 “vi Huệ đồn tướng trở chi” cũng lại không trôi nữa. Theo văn pháp, câu này muốn đặt lối actif thì nói 惠 屯 將 阻 之 “Huệ đồn tướng trở chi”; muốn đặt lối passif thì nói 爲 惠 屯 將 所 阻 “Vi Huệ đồn tướng sở trở”, chứ không ai lại đặt câu bằng lối passif lại còn để chữ 之 chi là chữ chỉ có thể dùng được trong câu actif mà thôi. Cuốn 31, truyện Cao Man, tờ 8, chỗ nói ba người em khác mẹ của vua Cao Man chạy sang Xiêm, bầy tôi cũ trong nước “có nhiều kẻ lẻn theo họ” mà biên là 多 有 潛 往 之 者 “đa hữu tiềm vãng chi giả” cũng không đúng mẹo. Theo văn pháp, 往 vãng là verbe intransitif, theo sau nó phải để chữ 焉 yên, không được để chữ 之 chi. Thế thì nên chữa lại 多 有 潛 往 焉 者 đa hữu tiềm vãng yên giả ; nhưng như thế, đúng mẹo mà chưa đủ nghĩa, vậy phải chữa nữa là 多 有 潛 往 從 之 者 “đa hữu tiềm vãng tòng chi giả”. Thôi, không lẽ cứ thế này mà kéo dây ra mãi, chỉ trích ba chỗ cũng là đủ rồi. Nhân tiện, tôi nắm lấy lẽ này làm kết luận Hơn một ngàn năm học chữ Hán, vẫn có nhờ nó lập cho ta một nền văn hóa khả quan, nhưng nếu nói ta đã lập nên trên thứ chữ ấy một nền văn hóa xứng đáng thì tôi tưởng rằng chưa chắc. Bởi một thứ chữ mà ta viết hãy còn chưa được nhã thuần, chưa đúng văn pháp, thì làm sao cho thành văn học được? Tội không tại người mà cũng không tại chữ. Tội tại người nước này mà lại dùng chữ nước kia! Bởi vậy tôi nói nước ta từ ngày có văn học quốc ngữ là một hạnh phúc ở đâu đưa đến cho chúng ta! Ở người ta, nước mất thì sợ cho chữ cũng theo mà mất; còn mình, trong khi nước mất lại có quốc văn sản xuất và mỗi ngày một thịnh, ấy chẳng phải là điều may mắn lạ? Nhân chữ Hán suy ra, tôi biết chữ Pháp rồi cũng thế. Cái trạng huống của văn học chữ Pháp ở nước ta mai sau ra thế nào, tôi có thể đoán biết từ hôm nay. Văn của ông Nguyễn Mạnh Tường hay của ông Phạm Duy Khiêm, mãi đến sau đây vài mươi năm rồi người ta sẽ tìm thấy nó pasfrançais cũng như văn cụ Sào Nam đã không được nhã thuần, của các quan Sử quán đời Tự Đức đã sai văn pháp! Thế thì sao người ta còn sính chữ Tây cũng như ngày xưa đã sính chữ Tàu? Rút lại, một thứ chữ ngoại quốc nào cũng chỉ hành dụng bởi sự nhu cầu của thời đại mà thôi, còn muốn lập nên văn học thì ắt phải là văn tự bản quốc mới được. Vậy chúng ta nên đồng thanh kêu Hỡi, người Việt Nam, trở về với quốc văn! PHAN KHÔI ▲ Tức là bài Văn học chữ Hán của nước ta đăng trên Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 169 22. 9. 1932 ▲ Nhân đề có chữ kỳ lân nên bài làm mỗi câu có tên một con vật để chọi quy, long, hùng gấu, lộc hươu; vì thế mà cho là hay, phục là tài. nguyên chú ▲ Xem sách Nam hải dị nhân liệt truyện về truyện ba người Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Thị Điểm. Ở đó có giải rõ nghĩa các câu đối này. ▲ Nguyễn Hy Tông tức là Nguyễn Phúc Nguyên ở ngôi chúa 1558-1612 ▲ Xem Nam hải dị nhân liệt truyện về truyện Đào Duy Từ. ▲ Nguyễn Thái Tông tức là Nguyễn Phúc Tần ở ngôi chúa 1648-1687 ▲ Jeu de mots chữ Pháp chơi chữ. ▲ Nghĩa là Mặt trăng sáng và trong, bị đám mây đùa bỡn làm cho tối lại sáng. ▲ Bốn câu giữa của bài Cẩm sắt Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp, Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. Thượng hải nguyệt minh châu hữu luy, Lâm Điển nhật hoãn ngọc sinh yêu. Xin khỏi thích nghĩa, vì khó quá mà lại lôi thôi nữa. ▲ Chắc nghĩa thế nào mà thích được! ▲ Nghĩa rõ rồi, không cần thích! ▲ Thơ của Nguyễn Hương, nghĩa là học được cái bí quyết sống lâu mà chẳng cầu cho thiên hạ biết mình. ▲ Nghĩa là người trong núi tự đi qua đi lại, vì núi sâu nên người ngoài chẳng ai biết. ▲ Thơ của Phạm Lam Anh ***, nghĩa là cái khí phẫn uất lồng lên, trời cũng có thể hỏi được; cái người một mình tỉnh đã đi rồi, trong nước trống trơn. Hai mẩu này đều thấy trong sách Đại Nam Triều Biên liệt truyện. ▲ Truyền kỳ mạn lục 傳 奇 漫 錄 của Nguyễn Dữ đời Hậu Lê; Vân nang tiểu sử 雲 囊 小 史 có in trong Nam Phong mấy số đầu.
văn học chữ hán việt nam